Sự phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản tại Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh kinh nghiệm từ trước, người nuôi trồng cũng đã có những phát hiện và nghiên cứu về chăn nuôi, kiến thức nhất định cho ngành nghề. Một trong số đó phải nhắc tới đó là kỹ thuật nuôi lươn giống bằng phương pháp bán nhân tạo. Cụ thể, người nuôi trồng thuỷ sản đã sử dụng nguyên liệu là các loại thức ăn viên. Nhờ có kỹ thuật này mà họ giảm thiểu được hạn chế khi không còn phải phụ thuộc vào con giống và thức ăn chăn nuôi. Từ đó mang lại những hiệu quả nhất định trong sản xuất con giống và tiết kiệm được chi phí cho người nông dân.
Mục Lục
Chăm sóc lươn bố mẹ bằng nuôi vỗ
– Chuẩn bị bể nuôi vỗ: Bể hình chữ nhật (ngang: 4 m x dài: 10 – 20 m), chiều cao thành bể từ 0,8 – 1,0 m, lót bạt trong bể. Dùng đất sét xếp bên trong vòng quanh thành bể, độ dày đất 0,4 – 0,5 m. Diện tích đất chiếm 50% diện tích bể (giữa bể không cho đất). Cấp nước vào bể, khống chế độ sâu của nước khoảng 30 – 40 cm (đất cao hơn mặt nước trong bể khoảng 10 – 15 cm). Bể có ống nước cấp vào và ống nước thoát ra (bố trí ống nước cấp vào và ống nước thoát ra đối diện nhau. Mặt bể có thể thả ít lục bình.
– Lươn 10 -12 tháng tuổi có thể chọn để nuôi vỗ cho sinh sản (có thể chọn lươn nuôi hay lươn tự nhiên). Chọn lươn 150 – 200 g/con, khỏe mạnh, không bị xây sát. Lươn nuôi vỗ khoảng 2 – 3 tháng trong bể lót bạt trước khi cho sinh sản.
– Mật độ nuôi vỗ lươn bố mẹ: 10 con/m2 bể. Tỉ lệ đực:cái là 1:1.
– Cho ăn: Cho lươn ăn 01 lần/ngày với các loại thức ăn như: trùn quế, tép, ốc, cá băm nhỏ,… hoặc thức ăn viên 35-40% đạm, lượng thức ăn khoảng 1% khối lượng thân. Theo dõi chất lượng nước của bể để thay cho phù hợp.
Quan sát quá trình lươn đẻ tự nhiên
Khi sinh sản, lươn làm tổ bằng cách đào hang và nhả bọt rất nhiều lên miệng hang. Khi thấy có tổ bọt xuất hiện trên miệng hang và tổ bọt lớn dần từ chiều tối hôm trước thì đến sáng hôm sau lươn đã đẻ. Bọt do lươn nhả ra có tác dụng bảo vệ trứng, giữ trứng tập trung trong tổ và cung cấp oxy cho trứng. Trứng lươn có màu vàng nhạt, trong suốt, dao động từ 100 đến 1.000 trứng trên 01 ổ. Sáng kiểm tra các tổ bọt và vớt trứng vào ấp.
Theo dõi quá trình ấp trứng lươn
Dụng cụ ấp trứng lươn có thể là thau, khay… Nhiệt độ ấp dao động từ 28-30oC, pH 6,5-8, oxy ≥5 mg/l. Nên bố trí hệ thống sục khí trong dụng cụ ấp. Sau thời gian ấp 5 ngày, trứng bắt đầu nở và nở hết sau 2 đến 3 ngày tiếp theo.
Lươn con mới nở chiều dài tối đa 2cm, ít cử động, chỉ nằm im dưới đáy bể.
Lươn nở được 5 ngày thì bắt đầu cho ăn trứng nước, trùn chỉ (thức ăn chiếm 6 – 10% trọng lượng thân).
Lươn nở sau 7 ngày cho ăn trùn chỉ.
Sau 10 ngày thì ăn trùn quế băm nhỏ.
Trên 15 ngày tuổi bắt đầu cho ăn thức ăn công nghiệp trộn trùn quế.
Quản lý quá trình ương lươn
– Khi lươn được 25 – 30 ngày tuổi, đạt khoảng 5cm, chuyển ra bể để ương thành lươn giống. Mật độ lươn bột thả ương từ 500 – 800con/m2. Lúc này cho ăn thức ăn viên 40 – 42% đạm, khoảng 1% khối lượng thân. Thời điểm này nên cho ăn bổ sung vitamin, khoáng, men vi sinh để tăng cường sức đề kháng cho lươn con.
– Chăm sóc, quản lý: Bố trí dây nilon trong bể ương để lươn trú ẩn. Dây nilon được cột lại thành bó dài 40-50 cm và bố trí chiếm 30-40% diện tích bể. Mức nước trung bình từ 7-10 cm. Định kỳ 4 tuần/lần phân cỡ lươn giống nhằm nâng cao tỷ lệ sống và hạn chế sự cạnh tranh mồi. Tạm ngưng cho ăn 01 ngày trước khi chuyển sang bể nuôi thương phẩm hay xuất bán.
– Phòng bệnh: Trong giai đoạn lươn chuyển thức ăn từ trùn chỉ sang loại thức ăn công nghiệp nên bổ sung thêm khoáng, vitamin và men vi sinh hỗ trợ tiêu hóa, tăng sức đề kháng. Cần lưu ý khi thay nước không để nhiệt độ nước chênh lệch quá 3oC. Thường xuyên định kỳ tắm muối với liều lượng 2-3%. Chỉ sử dụng sát khuẩn và kháng sinh khi thật cần thiết (xuất huyết toàn thân, nấm thủy mi, xuất huyết hậu môn…).
Tổng kết
Sau 2 – 3 tháng ương, lươn đạt cỡ từ 100 – 200 con/kg, dài 10 – 15 cm/con thì có thể xuất bán lươn giống hoặc chuyển qua nuôi thương phẩm. Trong quá trình thực hiện, hộ dân phải theo dõi ghi chép thật kỹ các nội dung công việc đã thực hiện. Từ đó làm cơ sở hạch toán hiệu quả kinh tế và rút kinh nghiệm cho vụ nuôi sau được tốt hơn. Có như vậy mới tạo ra được nguồn lươn giống nhân tạo chất lượng, đáp ứng yêu cầu của người nuôi.
Mô hình sản xuất lươn giống bán nhân tạo giúp người nuôi chủ động được nguồn giống chất lượng. Con giống nhân tạo rất khỏe, cỡ đồng đều, sạch bệnh. Sử dụng được thức ăn viên, ít hao hụt khi nuôi. Nhờ đó đáp ứng yêu cầu về chất lượng và một phần số lượng theo nhu cầu của người nuôi. Mô hình nuôi lươn sinh sản bán nhân tạo đang mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân. Đặc biệt là với những hộ gia đình sản xuất với quy mô nhỏ. Hy vọng thời gian tới mô hình sản xuất này thành công hơn nữa và được nhân rộng để đáp ứng nhu cầu lươn giống chất lượng của người dân.