Cá rô đồng là loài cá gần gũi, thân thiện với mọi vùng quê Việt Nam. Đây là một loại cá dễ nuôi, sức sống cao, chúng thường được nuôi ở môi trường nước ngọt, nước lợ. Chính những đặc điểm trên nên loài cá này đang được nuôi khá nhiều tỉnh trên cả nước. Một trong những điểm trừ của giống cá này chính là quá nhiều xương dăm, nhưng thịt cá dai, ngon và béo. Trong quá trình nuôi, cá rô đồng cũng khá dễ mắc phải một số bệnh do môi trường nuôi không đảm bảo. Một trong những bệnh nguy hiểm chính là bệnh nấm nhớt trên cá rô đồng. Bà con cần phải biết dấu hiệu bệnh, phòng và trị bệnh để giúp cá phát triển tốt.
Mục Lục
Bệnh nấm nhớt trên cá rô đồng khiến bà con lo lắng
Bệnh nấm nhớt trên cá rô đồng đang gây ra nhiều lo lắng cho bà con nông dân. Căn bệnh nấm nhớt có tốc độ lây lan khá nhanh trong ao nuôi. Qua đó gây ra những thiệt hại về kinh tế vô cùng lớn cho người chăn nuôi. Căn bệnh này thường xuất hiện khi thời tiết giao mùa, trời lạnh. Bên cạnh đó môi trường nuôi bị ô nhiễm cũng là điều kiện lý tưởng cho căn bệnh bùng phát.
Tìm hiểu thông tin về bệnh nấm nhớt trên cá Rô Đồng: dấu hiệu bệnh, phân lập vi nấm, yếu tố nguy cơ gây ra bệnh, một số giải pháp cần thục hiện ho việc phòng bệnh nuôi thâm canh, phương pháp trị bệnh
Một vài dấu hiệu của bệnh
Cá rô đồng nuôi thâm canh trong ao đất bị bệnh “nấm nhớt” thường có dấu hiệu bệnh lý là lớp nhớt trắng đục rất nhầy tập trung trên thân, vảy xù xì, đôi khi có nhiều đốm đỏ xuất hiện trên thân cá. Cá rô đồng bị bệnh nặng thì lớp nhớt phủ toàn thân làm ảnh hưởng lớn giá trị thương phẩm. Qua quan sát tiêu bản tươi phần cơ bên dưới vùng có dấu hiệu bệnh lý dễ dàng nhận thấy có sự hiện diện của bào tử nấm.
Phân lập vi nấm trong môi trường nuôi
Kết quả nghiên cứu trên nhiều mẫu bệnh phẩm đã phân lập được 3 nhóm vi nấm kí sinh trên cá rô đồng bị “nấm nhớt” nuôi thâm canh trong ao đất là Fusarium, Acremonium và Geochitrum. Đây là vi nấm thuộc lớp nấm bất toàn (bậc cao) vì sợi nấm có vách ngăn ngang và sinh sản vô tính bằng bào tử. Ngược lại, những mẫu cá không có dấu hiệu bệnh thì không phân lập được vi nấm.
Nguyên nhân gây ra bệnh
Nhìn chung, bệnh do vi nấm trên cá thường xẩy ra khi nhiệt độ nước trong ao nuôi thấp hoặc thời tiết thay đổi (giao mùa hoặc trở lạnh). Đặc biệt bệnh thường bộc phát khi chất lượng nước trong ao nuôi giảm hay nhiễm bẩn. Do mật độ cá nuôi quá dầy, cách chăm sóc và quản lý thức ăn. Đặc biệt chất lượng thức ăn chưa tốt.
Một vài phương pháp phòng bệnh
Phòng bệnh là giải pháp tối ưu cho việc thâm canh trong nuôi trồng thủy sản. Muốn phòng bệnh hiệu quả người nuôi cá rô đồng phải hiểu rõ những yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến bệnh bộc phát. Từ đó làm căn cứ cho việc phòng bệnh hiệu quả hơn. Một số giải pháp cần thực hiện cho việc phòng bệnh nuôi thâm canh cá rô đồng:
– Chuẩn bị ao nuôi kỹ, sên vét bùn, xử lý đáy ao bằng vôi 10 kg/100 m2.
– Mật độ thả nuôi không quá dầy, trung bình 40 con/m2.
– Định kỳ tạt nước vôi xuống ao với liều lượng 3 kg/100 m3 khi môi trường ao nuôi ngày càng xấu dần ở những tháng cuối vụ nuôi.
– Định kỳ bón Zeolite làm sạch đáy ao liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.
– Hoặc định kỳ diệt mầm bệnh bằng thuốc tím với liều lượng 2 g/m3 hòa tan, tạt đều ao.
– Hoặc định kỳ diệt mầm bệnh bằng phức hợp Iodine theo hướng dẫn nhà sản xuất. Cách dùng được ghi trên nhãn thuốc. Sau đó bà con tiến hành tạt đều ao.
Phương pháp điều trị bệnh nấm nhớt trên cá rô đồng
Giải pháp trị bệnh trong nuôi cá nói chung là phải có sự kết hợp giữa xử lý môi trường ao nuôi. Qua đó tăng sức đề kháng và tiêu diệt mầm bệnh. Sau đây là một số loại hóa chất có khả năng diệt mầm bệnh vi nấm. Hiện đang được các chuyên gia khuyến cáo sử dụng:
– Thuốc tím với liều lượng 10 g/m3 tắm cho cá trong thời gian 30 – 60 phút.
– Formol với liều lượng 20 ml/m3 tắm trong thời gian 30 – 60 phút và trị liên tục 3 – 5 ngày, lưu ý không được trị quá liều hoặc không thực hiện điều trị lúc trời quá nóng.
– Phèn xanh (CuSO4.5H2O) nồng độ 0,2 – 0,5 g/m3 hòa tàn tạt đều ao, đồng thời kết hợp rải muối hột trực tiếp xuống ao với liều lượng 5 kg/100 m2. Lưu ý để sử dụng phèn xanh hiệu quả cần phải đo độ kiềm trong nước và lượng phèn xanh sử dụng. Chúng được tính như sau: Lượng phèn xanh sử dụng (mg/L) = độ kiềm trong nước (mg/L)/100